5 sách hay về Quảng Nam bạn nên tìm đọc

5 cuốn sách hay về Quảng Nam giới thiệu nhiều danh nhân, thắng cảnh và văn hóa đặc sắc của Quảng nam.

Quảng Nam Hay Cãi (Tạp văn)

Quảng Nam Hay Cãi (Tạp văn)

Tuyển tập của tác giả Vũ Đức Sao Biển giới thiệu một phần đặc điểm, tính cách của con người Quảng Nam, tâm hồn Quảng Nam.

Nội dung của cuốn sách, ẩn dưới lớp bìa văn học pha chút hài hước, giúp độc giả có cái nhìn sâu sắc về sự trung thực, ngay thẳng, trung thành và chất phác của người dân Quảng Nam.

Dinh Trấn Thanh Chiêm Quảng Nam

Dinh Trấn Thanh Chiêm Quảng Nam

Dinh Trấn Thanh Chiêm Quảng Nam là một biên khảo công phu về vùng đất Thanh Chiêm, nay thuộc xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từng là Dinh trấn Quảng Nam dưới thời chúa Nguyễn và là cái nôi khai sinh ra chữ Quốc ngữ.

MỤC LỤC (Tóm lược)

  • LỜI GIỚI THIỆU
  • DẪN NHẬP
  • CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH DINH TRẤN THANH CHIÊM (1474 – 1604)
  • CHƯƠNG 2: KHAI SINH CHỮ QUỐC NGỮ (1620 – 1659)
  • CHƯƠNG 3: THANH CHIÊM DƯỚI THỜI CÁC CHÚA NGUYỄN (1604 -1802)
  • CHƯƠNG 4: THANH CHIÊM DƯỚI THỜI TRIỀU NGUYỄN VÀ PHÁP THUỘC (1802 – 1945)
  • CHƯƠNG 5: THANH CHIÊM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
  • PHỤ LỤC
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiểu Vùng Văn Hóa – Xứ Quảng

Tiểu Vùng Văn Hóa – Xứ Quảng

Khi nói đến giá trị văn hóa Xứ Quảng, không chỉ những người Quảng Nam – Đà Nẵng mà còn bao gồm những con người thuộc các dân tộc sống trên mảnh đất này từ thuở khai hoang, dựng nghiệp cho đến nay đã đồng tâm hiệp lực tạo nên diện mạo đặc trưng của một vùng.Văn hóa xứ Quảng tuy có những nét đặc trưng riêng, nhưng vẫn nằm trong loại hình văn hóa nông nghiệp Việt Nam. Nơi đây chứa đựng một nền văn hóa có giá trị vật chất rực sáng và giá trị tinh thần hào hùng.

Văn hóa xứ Quảng không chỉ đặc trưng ở văn hóa cư trú người Kinh vùng đồng bằng và tộc người Cơtu ở vùng cao, ở các di tích lịch sử – văn hóa như thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, thắng cảnh Hải Vân, Sơn Trà, ở truyền thuyết Tiên Sa, Non Nước, mà còn thể hiện ở văn hóa ẩm thực, đó là mì quảng, bánh tráng đập dập, bánh ít lá gai, bánh tráng cuốn thịt heo…với những hương vị rất riêng không lẫn với những sản vật của nơi khác.

Văn hóa vùng đất này còn là các làn điệu dân ca, hát hò khoan, bài chòi, lý hò vè độc đáo, chân chất đồng hành cùng các câu hát đồng dao, hát bả trạo, hát sắc bùa, các trò diễn dân gian như múa lân, các vũ đạo có đường nét kinh điển của nghệ thuật Tuồng truyền thống mà người xưa gọi là hát Bội. Người dân xứ Quảng cũng rất tự hào vì nơi đây từng được mệnh danh là cái nôi của loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian độc đáo này.

Văn hóa xứ Quảng còn là sức sống, sức sáng tạo của người dân được thể hiện ở kinh nghiệm, tri thức được tích lũy trong quá trình lao động và đấu tranh bền bỉ với thiên nhiên, với kẻ thù. Tri thức và năng lực sáng tạo đó còn biểu hiện qua hàng ngàn câu ca dao, tục ngữ, hàng trăm sản phẩm độc đáo của làng nghề truyền thống, như đồ mỹ nghệ Non Nước, guốc mộc Xuân Dương, nước mắm Nam Ô, thuốc lá Cẩm Lệ, bánh tráng Túy Loan…Tất cả đã nói lên tài hoa và sự khéo léo, tinh xảo của người xứ Quảng.

Có thể nói giá trị đặc trưng của văn hóa xứ Quảng nói chung, của Đà Nẵng nói riêng là những nét đặc thù của một vùng văn hóa nằm trong tổng thể của nền văn hóa Việt Nam. Sứ mệnh lưu giữ và phát huy những giá trị văn hóa quý báu của các bậc tiền bối không chỉ bắt nguồn từ tình cảm mà còn phải được xem là trọng trách của những con người đang sống trên quê hương thân yêu này.

Người Quảng Nam – Lê Minh Quốc

Người Quảng Nam – Lê Minh Quốc

Cuốn sách được Sơn Nam viết lời giới thiệu như sau:

“…Tập sách của Lê Minh Quốc quả là nhọc công, có gợi mở nhiều vấn đề thú vị, tản mạn trong nhiều chương sách. Đã chứng minh được những đóng góp của người Quảng nói chung trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt. Dễ đọc, dễ theo dõi. Có lúc văn phong bay bướm, dễ cảm thông nhưng lại có khi “nghiêm nghị” quá. Trước đây tôi ước ao có đủ tài liệu, thời gian để làm cuốn sách, đại khái tên gọi “Vai trò người Quảng Nam đối với nền kinh tế ở Nam Kỳ”. Vai trò này rất lớn, không thể không khẳng định qua những lý giải khoa học, có chứng cứ. Đây cũng là một gợi ý, hy vọng sẽ có người Quảng Nam tâm huyết đeo đuổi đề tài này.

Viết tập sách về vùng đất mà mình chôn rau cắt rốn, sinh ra, là đáng hoan nghênh. Sẽ có người đồng ý điểm này, chưa đồng ý đoạn kia, không sao, miễn là viết bằng cái tình, vì tình tự quê hương mà không nhằm vụ lợi riêng tư nào. Trước khi viết Người Quảng Nam do quan hệ nhiều năm, chỗ thân tình, anh bạn Lê Minh Quốc có đến hỏi và nhờ tôi “cố vấn” vài điều, nhỏ thôi. Tôi từng trao đổi rằng: “Viết về vùng đất mình sinh ra là chọn con đường đi đúng hướng, để qua đó sống lại với đời sống tâm linh nguồn cội. Đời sống tâm linh là cần, nhưng cái tâm linh dạt dào sức sống ấy phải thúc đẩy con người nhìn ra thế giới, với các nước láng giềng. Tự tôn với cái “tâm linh thuần túy” của mình là tự sát. Phải tạo ra cái vật chất, phải có khoa học kỹ thuật, phải tồn tại và tồn tại cho bằng được”.

Quảng Nam Những Vấn Đề Lịch Sử

Quảng Nam Những Vấn Đề Lịch Sử

Thêm một góc nhìn để tìm hiểu về mảnh đất và con người xứ Quảng…

Trong lời tựa tập sách Quảng Nam – những vấn đề lịch sử (do Trung tâm nghiên cứu quốc học và Nhà xuất bản Văn học ấn hành vào tháng 5.2013), nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy nêu rõ: “Đất Quảng Nam, kể chiều dài lịch sử đã năm trăm năm thành lập có dư Với lịch sử ấy, địa lý ấy, đất và con người không gian nơi đây không thể không hàm tàng bao nhiêu vấn đề thuộc khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn”. Chính vì vậy, tác giả muốn “trình” Quảng Nam những vấn đề lịch sử nhằm góp phần nhỏ trên bước đường tìm về dĩ vãng lịch sử một miền quê hương, mà theo ông: “cũng là kết quả học hỏi của kẻ hậu học giữa thời buổi nền học cũ đã tàn từ lâu, còn học mới thì… trước bao luồng gió xoáy của thời đại đang vừa trì thủ vừa khai phóng để tự tạo một bản sắc riêng”.

Ở phần khảo về địa danh trên đất Quảng Nam, tác giả chia làm 6 phần: Khảo về danh xưng Đà Nẵng, danh xưng Hội An xưa, Sông nước mùa thu, khảo về danh xưng “Bà Nà”, Dinh Chiêm hay Dinh Chàm, nghĩ về tên sông Thu Bồn.

Trong đó, về tên gọi “Hàn – Đà Nẵng”, tác giả dẫn giải nhiều tư liệu về danh xưng “Thủ Hàn”, về “Tourane” đến “Hàn – Đà Nẵng”. Ông cho rằng, mảnh “đất Hàn – Đà Nẵng” chủ yếu được thành lập do sự trầm tích ở môi trường cửa sông và ven biển. Theo thời gian tính bằng ngàn năm, biển rút lui dần về đông, bày ra các thủy đạo lớn nhỏ đổ xuôi theo triền dốc bồi tích, thường xuyên chuyển đổi dòng chảy ở hạ lưu với hiện tượng mở dòng mới, trám dòng cũ. Cho đến một lúc chỉ còn ba thủy đạo lớn là Thanh Khê, Thạc Gián và Hàn Giang mở cửa tiếp giáp với biển.

Về danh xưng Hội An, theo tác giả, các đô thị cảng sông có lịch sử 400 năm ấy đã mang nhiều danh xưng khác nhau trong sử sách, khiến người đời sau lẫn lộn không biết phải tin vào thuyết nào. Cụ thể, qua trình tự thời gian có các thuyết Hoa phố, Hội phố, Hải phố, Hoài phố, mà người Quảng Nam xứ Đàng Trong ưa gọn khô nhát gừng, chỉ nói: “PHỐ”, với ý nghĩa chân xác nhất là nơi tàng trữ bán buôn và trao đổi hàng hóa.

Nhắc về tên gọi sông Thu Bồn, tác giả viết: “Địa lý học lịch sử cho ta biết rằng tên sông Thu Bồn, sớm nhất, đã có từ trước 1470 là năm Lê Thánh Tông neo thuyền nghỉ giải lao tại bến sông Thu Bồn. Bài thơ Thu Bồn dạ bạc đánh dấu sự dừng chân của ông vua giỏi nhất triều Lê, đồng thời xác định niên đại in ra bằng dấu tích văn tự, danh xưng con sông lớn nhất của đất nước Quảng Nam. Tuy nhiên, tác giả cũng nêu ra sự kiện: “Từ sau thế kỷ IX là năm ra đời danh tác Tỳ Bà Hành (816) của Lạc Thiên, đến nửa đầu thế kỷ XV là năm Lê Thánh Tông dừng chân tại bến Thu Bồn (1470), sông ấy gọi tên vào niên đại nào thật khó xác định, nhưng danh xưng “Thu Bồn” hẳn phải có sau “Bồn giang” của Bạch Cư Dị bị lưu đày ở xứ Giang Tây”, đồng thời lưu ý: “Các nhà yêu nước cực đoan cần bình tâm trước một sự kiện địa danh học – lịch sử. Nghiên cứu khoa học có những tư biện của nó mà tình tự dân tộc không thể lấn át”.

Ở phần khảo về nhân vật, sự kiện Quảng Nam, tác giả dẫn dắt người đọc gặp lại nhiều nhân vật, sự kiện rất đặc trưng và thú vị như: Những chuyến ngự du Ngũ Hành Sơn của vua Minh Mạng, Quan lại Bắc hà điếu Hoàng Diệu, bài ký “Khán Hoa Đình”, Trần Quý Cáp: tiên khởi tuẫn quốc vì công cuộc duy tân Việt Nam đầu thế kỷ XX, Coi tàu bay tại Huế và Đà Nẵng năm 1913, Nói thêm về kỳ nữ họ Tống, Văn bia chùa Long Thủ…

Một trong những sự kiện đáng nhớ như “Coi tàu bay tại Huế và Đà Nẵng năm 1913” được tác giả dẫn tài liệu rành rọt: “Chiều ngày thứ Hai 4.8.1913, dưới sự tổ chức chu đáo của Ủy ban Hỗn hợp Pháp Nam, khoảng 30.000 khán giả tề tựu quanh các bờ thành và lũy đất trước kỳ đài của kinh thành. Vua Duy Tân, Tôn nhân phủ, hoàng thân quốc thích cùng các triều thần ngự trên khán đài danh dự dựng trên bờ tường tầng thứ nhất của các kỳ đài. Các bà thái hậu, hoàng phi, công chúa ngồi dưới mái lầu Ngọ môn ngó ra. Về phía Pháp, người ta thấy có Khâm sứ Charles, các phán sự tòa Khâm, các sĩ quan thuộc địa… Đúng 17 giờ 30 phút, chín phát thần công của Nam triều chào mừng khai diễn cuộc bay, hòa với tiếng nhạc trỗi “La Marseille” của quốc ca Pháp do ban nhạc hơi thuộc liên đội 9 bộ binh thuộc địa cử hành”.

Trong bài viết “Bức ảnh đầu tiên chụp ở Việt Nam”, qua những phân tích đối chiếu, tác giả nhận định, bức “Ảnh chụp từ Đồn xưa Đàng Trong Non Nay” (trong quyển III sách Nhật ký một chuyến du hành đến Trung Hoa… của Jules Itier) là bức ảnh đầu tiên chụp ở Việt Nam với kỹ thuật non trẻ của phim tấm Daguerréotype. Chính là khung cảnh tại vị trí Đồn Bắc – một đồn phòng ngự cửa biển tại Đà Nẵng.

Phần “Mấy vấn đề Champa trên đất Quảng Nam” gồm những bài viết: Văn bia An Thái và Phật giáo Champa, Amaravâti, Văn khắc Chàm trên vết đá Thạch Bích, Vị trí địa lý Indrapura… Trong đó, nhiều bài viết được Nguyễn Sinh Duy chuyển ngữ từ bản tiếng Pháp, chứ không tổng hợp tài liệu. Đặc biệt, ở phần phụ đính bao gồm hình ảnh và các bản sao chụp hồ sơ, công điện, nghị định… bằng nguyên bản tiếng Pháp. Trong đó, có Nghị định của Khâm sứ Trung kỳ Luce về việc nhượng đất làng Nghi An (Hòa Vang) cho Gravelle, Công điện phủ Toàn quyền Đông Dương và Thống đốc Nam kỳ về việc lưu đày hai vua Thành Thái và Duy Tân đi Réunion năm 1916, Hồ sơ vụ kiện đất của làng Nghi An với chủ Nhà băng Đông Dương Đà Nẵng là Gravelle…

TRẦN TRUNG SÁNG

Trịnh Nhã

Tôi, Trịnh Nhã là một người yêu sách, đam mê đọc sách và là một blogger. Tôi thích tìm những cuốn sách mới để đọc và chia sẻ suy nghĩ của mình về chúng với những người khác. Tôi luôn chờ đợi cuốn sách hay tiếp theo của mình, và tôi không thích gì hơn là giới thiệu một cuốn sách hay cho ai đó.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button